Dự buổi làm việc với Đoàn có Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Đỗ Quang Nghĩa; Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Phùng Tô Long, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quốc Huy Hoàng; đại diện Công an tỉnh, các cơ quan, đơn vị liên quan.
Tại buổi làm việc, đại diện các cơ quan của tỉnh đã báo cáo về tình hình triển khai thực hiện các nền tảng số tại các cơ quan của tỉnh Quảng Ngãi khi chính quyền địa phương 2 cấp chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2025. Đến nay, về cơ bản các cơ quan của tỉnh đã triển khai đầy đủ, kịp thời các nhiệm vụ liên quan đến nền tảng số để đảm bảo thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hoạt động thông suốt, hiệu quả, không gián đoạn.
.JPG)
Quang cảnh buổi làm việc
Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh, thời gian qua luôn hoạt động ổn định, đảm bảo kết nối, tích hợp đúng thời gian, lộ trình triển khai của các bộ, ngành, trung ương. Tỉnh Quảng Ngãi là 1 trong 5 tỉnh đã hoàn thành 100% việc tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia với 2.127 thủ tục hành chính trực tuyến; triển khai chính sách thu phí “0 đồng” đối với việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến thuộc phạm vi giải quyết của địa phương; hiện tỷ lệ hồ sơ tiếp nhận trực tuyến của các sở, ban, ngành tỉnh bình quân khoảng 79,4%; các xã, phường, đặc khu khoảng 68,84%.
Về triển khai hệ thống điều hành tác nghiệp và quản lý văn bản điện tử, Văn phòng Tỉnh ủy đã triển khai ứng dụng Nền tảng quản trị tổng thể để bảo đảm phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng trong tỉnh sau khi thực hiện sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính. Đến nay, Nền tảng quản trị tổng thể đã triển khai đồng bộ đến các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy; các Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy và 96/96 Đảng ủy xã, phường, đặc khu trong toàn tỉnh; toàn bộ văn bản được xử lý trên máy tính và trên các thiết bị đi động thông minh, có thể ký số văn bản thông qua USB Token hoặc SIM PKI do Ban Cơ yếu Chính phủ cấp.
Các cơ quan, tổ chức đảng trong tỉnh thường xuyên số hóa, cập nhật dữ liệu trên các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, phần mềm dùng chung và các ứng dụng số, cơ sở dữ liệu chuyên ngành để khai thác, sử dụng và phục vụ công tác quản lý, điều hành. Đến nay, trên 98% văn bản đi, đến đều được số hóa, cập nhật và phát hành trên môi trường mạng; trên 90% văn bản điện tử phát hành qua hệ thống quản lý văn bản đều được sử dụng chữ ký số chuyên dùng công vụ.
.JPG)
Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Đỗ Quang Nghĩa báo cáo tình hình thực hiện các nền tảng số tại các cơ quan, đơn vị
Để kịp thời phục vụ liên thông gửi, nhận văn bản của các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh sau sắp xếp, sáp nhập, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành mã định danh điện tử của các cơ quan, tổ chức đảng trong tỉnh; UBND tỉnh ban hành bổ sung mã định danh điện tử của các cơ quan, đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh. Mạng Truyền số liệu chuyên dùng đã được triển khai đến 100% các cơ quan cấp tỉnh và 100% cấp xã, phường, đặc khu.
Về chữ ký số chuyên dùng công vụ, tỉnh đã hoàn thành triển khai tích hợp ký số vào Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh phục vụ việc số hóa hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính, đảm bảo đáp ứng triển khai dịch vụ công trực tuyến. Đến nay, đã thực hiện các thủ tục, hồ sơ đề nghị cấp mới hơn 1.000 chữ ký số, thay đổi thông tin hơn 4.200 chứng thư số cho các tổ chức, cá nhân thuộc các cơ quan, tổ chức đảng và các sở, ban, ngành trong tỉnh trên Cổng dịch vụ công trực tuyến. Phối hợp với các Doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn tỉnh như: VNPT Quảng Ngãi, Viettel Quảng Ngãi trong việc triển khai và có chính sách hỗ trợ chữ ký số công cộng cho người dân, phục vụ thực hiện các dịch vụ công trực tuyến.
Đối với công tác bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, Tổ An ninh mạng, an toàn thông tin Công an tỉnh thực hiện Đề án 06 đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong việc kiểm tra, đảm bảo an ninh an toàn đối với hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh; hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; hệ thống căn cước, định danh và xác thực điện tử.
Đã phân loại hệ thống thông tin theo cấp độ quy định tại Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ; triển khai phần mềm phòng, chống mã độc và cập nhật định kỳ, có kiểm soát truy cập quản trị, có quy trình sao lưu, phục hồi dữ liệu, phương án phòng chống thất thoát dữ liệu. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu (LGSP) tỉnh Quảng Ngãi được cài đặt trên hạ tầng của Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi (Trung tâm dữ liệu tỉnh Quảng Ngãi được phê duyệt an toàn thông tin cấp độ 3 và phương án ứng cứu sự cố).
_(2).JPG)
Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Phùng Tô Long trao đổi, kiến nghị một số vấn đề quan trọng liên quan để vận hành đồng bộ, thông suốt, hiệu quả các nền tảng số
Tại buổi làm việc, các cơ quan của tỉnh đã trao đổi, phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện các nền tảng số; qua đó đề xuất, kiến nghị một số nội dung liên quan để triển khai động bộ, thông suốt các hoạt động công vụ, giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp trong thời gian tới.
Đoàn công tác đánh giá cao nỗ lực, trách nhiệm của tỉnh trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến nền tảng số, đảm bảo thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp thông suốt, hiệu quả, không gián đoạn; những đề xuất, kiến nghị của tỉnh, Đoàn tiếp thu, tổng hợp chung để báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.

Đoàn công tác trao đổi tại buổi làm việc
Đoàn công tác đề nghị tỉnh tiếp tục rà soát, thực hiện đồng bộ các biện pháp bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ được quy định tại Nghị định số 85/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ; triển khai công tác giám sát an ninh mạng, giám sát thiết bị đầu cuối để kịp thời xử lý khi phát hiện có dấu hiệu bất thường; phát huy hiệu quả hoạt động của Trung tâm điều hành thông minh IOC.
Chủ động phòng ngừa các nguy cơ tấn công mạng; khẩn trương kiện toàn Tiểu Ban an toàn, an ninh mạng; xây dựng quy trình rà soát, kiểm tra các thiết bị, phần cứng, phần mền để kịp thời phát hiện và nâng cấp hệ điều hành; có biện pháp bảo vệ phù hợp đối với các hệ thông thông tin không còn sử dụng nhưng hiện vẫn duy trì để tra cứu, đồng bộ dữ liệu; trang bị, nâng cao khả năng phòng, chống mã độc; sử dụng các phần mềm có bản quyền; thường xuyên tuyên truyền, tập huấn công tác đảm bảo an ninh mạng, an toàn thông tin cho cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ vận hành hệ thống công nghệ thông tin tại các cơ quan, đơn vị.